Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu
Bài làm
Có một sự thật là các nhà thơ Mới (1930-1945) ưu ái dành nhiều câu từ chau chuốt để viết về mùa thu. Trong đó, bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu tiêu biểu hơn cả, bởi bài thơ không chỉ vẽ lên bức tranh thu với những rung chuyển hết sức tinh tế mà còn gắn liền với những cung bậc cảm xúc đậm cái tôi Xuân Diệu.
“Đây mùa thu tới” được rút trong tập “Thơ thơ”, xuất bản năm 1938. Bài thơ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu viết về mùa thu của nhà thơ Xuân Diệu. Bài thơ đem đến cái buồn man mác thông qua những chất liệu rất quen thuộc như cành liễu, con đò, lá vàng.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Hình ảnh sắc thu len nhóm vào tâm hồn người đọc qua rặng liễu, lòng người trĩu xuống, rủ buồn theo dáng lá mong manh. Đâu còn cái dáng “lơ tơ liễu buông mành” trong thơ cồ, Xuân Diệu thấy liễu mệt nhoài, chán trường, cạn kiệt sức sống như người chịu tang. Những cành liễu rủ như dòng lệ ngàn tuôn chảy dồn xuống, thổn thức nỗi niềm cuối hạ, định hình một nỗi đau. Tại sao liễu lại phải đứng chịu tang? Liễu chịu tang ai? Có thể hiểu theo ý liễu đang đứng chịu taug cho muôn loài tàn tạ quanh nó. Cũng có thể hiểu liễu đang chịu tang chính tác giả, bởi Xuân Diệu là người hay lo:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân đã già”
(“Vội vàng”)
Cũng như trong xuân đã thấy hạ, trong non đã thấy già, Xuân Diệu cũng đang thấy cái chết ngay khi vẫn còn sống. Do đó, cái giọng thơ gấp gáp “Đây mùa thu tới – mùa thu tới” không thể là tiếng reo vui mà là giống hơn một tiếng kêu thảng thốt. Mỹ học thơ xưa là cái tĩnh, mỹ học thơ Mới là cái động. Cái chuyển động mà phải là người rất tinh vi mới nhận ra được: lá đang chuyển vàng.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh”
Nói “một loài hoa đã rụng cành” thì rất rễ hiểu, nhưng từ “hơn một” lại tạo cảm giác rất mới lạ. Rõ là từ chỉ số lượng – nhiều hơn một, có thể là hai hoặc ba nhưng lại tạo cảm giác như từng loài hoa đang rụng dần rụng dần hết chỗ này sang chỗ khác. Từ “rũa” được sử dụng một cách đắc địa. Màu đỏ nào đó rất vô hình nhưng rất thực đang chà xát làm phai màu xanh của lá để in sắc đỏ của nó vào đó. Màu đỏ như đang đuổi màu xanh ra khỏi “vương quốc” của chiếc lá biểu tượng cho sự sống đang bị lấn át bởi cái chết. Tiếp đến, ta như thấy cái hấp hối của lá qua từ “luồng run rẩy” “rung rinh”. Nhiều người cho rằng đây là những luồng gió làm lá rung rinh nhưng thực chất đây là luồng sự sống bị đứt đoạn. Cuối cùng, sự chết đã choáng lấy tất cả! “Đôi nhánh khô gầy” không còn gì khác ngoài tả sự chết chóc. Cũng giống như thơ Huy Cận: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồng trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Tác giả gọi trăng là “nàng” khiến cho trăng mang vẻ quý phái, kiêu sa. Kiêu sa, quý phái mà lại không che giấu nổi cái vẻ “ngẩn ngơ”, bơ vơ, ngơ ngác. Có lẽ Xuân Diệu đang nói tới chính mình. Nhà thơ cũng bâng khuâng, buồn vắng khi thấy xung quanh đầy những sự tan vỡ, chia li, tang tóc. Lặng người trước cảnh vật, tác giả có thể “nghe” được cả cái rét. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thể hiện cái dự cảm: thu vừa sang mà như đã thấy cả cái rét của đông.
Đoạn thơ cuối thấm đẫm sự chia ly:
“Mây vẩn tầng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Những đám mây vẩn đục thường thấy ở mùa đông, còn mùa thu sẽ ít mấy, trời xanh trong. Còn loài chim cũng đang bay đi tránh rét. Thêm đó, cái khí trời thu trong lành đâu có thấy, chỉ có sự “u uất”, ngột ngạt. Rõ ràng là “đây mùa thu tới”, nhưng người đọc như thấy toàn cái đặc trưng của mùa đông? Mùa thu là mùa trăng tròn, là Tết đoàn viên nhưng lại chỉ có nỗi “hận chia ly”. Thế mới hiểu được Xuân Diệu sống “vội vàng” tới mức nào, sợ thời gian tới mức nào.
Nhà thơ bắt đầu bằng hình ảnh cây liễu giống như cô gái rồi lại chọn kết thúc trong hình ảnh cô gái. Cô “thiếu nữ” đang buồn. Người xưa mượn mây nói trăng, mượn cảnh nói tình nhưng Xuân Diệu phá cách hơn, nhà thơ buồn sẽ nói “buồn”. Người con gái tượng trưng cho chính cảm xúc của Xuân Diêu đang buồn nỗi buồn vô cớ, như trách thời gian sao trôi nhanh quá. Cô thiếu nữ “không nói”, để cảnh vật tự nói hộ lòng người. Cô chỉ nhìn xa xăm vào cõi vô vọng, không biết đang chờ đợi gì, chờ đợi ai? Đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự vấn mình.
Bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu đã diễn tả những biến thái tinh vi của thời gian đan xen với những biến đổi của nội tâm con người. Đọc thi phẩm này, chúng ta cứ vương vấn mãi dáng thu, sắc thu và tình thu trong lòng.
Hoài Lê