Home / Văn mẫu / Văn mẫu lớp 11 / Phân tích bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương

Phân tích bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương

Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương.

Bài làm

Ít nữ thi sĩ nào lại có phong cách rất “điên” như Hồ Xuân Hương. Nó không chỉ là sự sáng tạo trong hình thức diễn đạt mà còn là cái phá cách trong nội dung cảm xúc, đi ngược thế sự thường tình. Hồ Xuân Hương bàn về những thứ dung dị nhưng sôi sục cảm xúc và khát khao giải phóng thực tại khuôn phép của chế độ phong kiến xưa. Thông qua bài thơ “Tự Tình”, tên tuổi Hồ Xuân Hương như càng được khẳng định vững chắc trong lòng độc giả.

Hồ Xuân Hương (1772 – 1822), là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng của Việt Nam. Bà được dân gian mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được xem như hiện tượng đặc biệt mới mẻ của dòng thi ca cổ điển Việt Nam, bởi thơ bà không chỉ thoát khỏi niêm luật chặt chẽ của Đường thi mà còn thể hiện một bản lĩnh mạnh mẽ, phóng khoáng. Tuy đa tài nhưng số phận long đong lận đận, do đó người ta biết đến Hồ Xuân Hương như một kẻ “hồng nhan bạc phận” thời xưa.

Bài thơ “Tự Tình” có lúc như cô đơn, buồn tẻ… có lúc đa tình, phóng khoáng, vừa thú vị vừa cảm xúc.

Tác giả dẫn người đọc vào không gian buồn cô quạnh, sầu bi thương:

“Canh khuya văng vẳng trống canh đồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Cái lúc “canh khuya” chỉ có âm thanh trống canh điểm giờ “văng vẳng” dội từ xa lại đượ lên ngôi tạo nên cái phông nền ảm đạm. Con người trên phông nền ấy là một đức “hồng nhan” nhưng đang “trơ”. Hồng nhan là từ dùng để chỉ người phụ nữ không chỉ đẹp ở bề ngoài, đa tài đa nghệ mà còn sắc sảo, giàu có về tâm hồn bên trong. Thời xưa hồng nhan thường đi kèm với “bạc phận”.

phan tich bai tho tu tinh ii cua ho xuan huong - Phân tích bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương
Em hãy phân tích bài thơ “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương

Hồng nhan gợi về hình ảnh nàng Kiều trong thơ Nguyễn Du xưa:

“Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lầu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương.

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”

(“Truyện Kiều”)

“Trơ” là cô đơn, trơ trọi. Kiều còn có khúc nhạc để gửi gắm tâm sự, còn người phụ nữ trong thơ bà Hồ đây thì cứ cô quạnh một mình, chỉ biết ngồi thừ ra đó cho thời gian qua đi. Người phụ nữ ấy không nói, không cười, cũng không làm gì cả, chỉ im lặng như rơi vào trạng thái vô cảm.

Không thể mãi “thu chân bó gối” như thế, người phụ nữ tìm cách giải quyết khác, nhưng cách làm ấy cũng không kém phần xót xa: mượn rượu giải sầu.

 “Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.”

Càng uống lại càng tỉnh, càng muốn quên đi những kí ức đau buồn lại thì lại càng ý thức được nỗi đau ấy. Trong lúc bức bối như thế, cái chất hồng nhan vẫn được tác giả bộc lộ qua hành động “chén rượu hương đưa”. Hóa ra người phụ nữ không uống rượu mà chỉ đang thưởng hương rượu, có ai lại say hương rượu. Không! Là say men tình, men đời mới đúng. Cái sự đời lênh đênh, mù mịt, chàng màng khiến người con gái tuy đẹp đấy, được ngưỡng mộ đấy nhưng như người “say” đi giữa cuộc đời, lúc tỉnh táo lúc lại mơ hồ.

Câu thơ sau là hình ảnh trăng – một hình ảnh quen thuôc nhưng có sức ám ảnh sâu sắc trong thi ca.  Trăng đang “bóng xế” và “khuyết chưa tròn”. Nếu nói “xế bóng” tức là trăng đang lặn nhường chỗ cho mặt trời lên, nhưng “bóng xế” lại gợi tả ánh trăng đã bước qua giai đoạn tròn vạnh, đầy đặn. Trăng đang trong trạng thái “khuyết” – sự thiếu thốn, sự thiếu hoàn hảo. Trăng cũng như số phận nhà thơ đã “lỡ hai lần đò” cuối cùng trải qua những ngày tháng dài làm vợ lẽ, bị bỏ rơi nơi lầu son gác tía.

Đến một thời điểm nào đó sức chịu đựng nhẫn nhịn đến một lúc nào đó sẽ chạm tới đỉnh điểm và “giọt nước tràn ly”. Thời điểm đó chính là lúc này đây:

 “Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”

Sự kết hợp của hình ảnh qua các động từ mạnh là “xiên ngang” và “đâm toạc” và nhịp 4/3, toàn thanh trắc bộc lộ trạng thái mất kiểm soát của nhà thơ. Loài rêu nhỏ bé, mỏng manh mà có thể “xiên” qua đất. Thứ đá dưới mặt đất lại “đâm toạc” được cả mây phía tít chân trời. Trời và đất là hai không gian nuôi sống con người và muôn loài. Thế nhưng, ngay lúc này người phụ nữ chỉ muốn đập tan không gian này, hủy hoại mọi sựu bủa vây cũng chính là lễ giáo phong kiến khắt khe bấy giờ.

Sau cái sự phản kháng trong tâm hồn, thực tại khắc nghiệt lại hiện ra khiến giọng thơ trầm xuống, nặng nỗi buồn phiền, thất vọng:

“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”

Cứ hết mùa xuân này tới mùa xuân khác qua đi, thời gian vốn một đi không trở lại nên cuộc đời mấy chốc đã qua mất thời thanh xuân. Nhưng người phụ nữ kia đã làm được gì? Người chẳng làm được gì cả ngoài ngồi đó than thở cùng thời gian, đến mức ngao ngán. Còn ngao ngán hơn nữa bởi cái cảnh thân phận người vợ lẽ thảm thương quá, chỉ có độc một “mảnh tình” thôi lại phải đem đi “san sẻ” chỉ còn “tí con con”. Thấm thía sự đời, cái tâm trạng được tác giả đưa vào thơ rất thật, rất trữ tình.

Tóm lại, với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nhưng độc đáo trong ngôn từ, mói mẻ trong hình thức thể hiện đã tạo nên phong cách cái tôi rất riêng của Hồ Xuân Hương. Qua bài thơ “Tự tình II”, Hồ Xuân Hương không chỉ phản ánh số phận chuân chuyên, phụ thuộc của người phụ nữ đồng thời là tiếng nói phê phán xã hội đương thời bất công, độc đoán.

Tôi tin rằng, vị “Bà chúa thơ Nôm” – Hồ Xuân Hương đã, đang và vẫn sẽ chiếm một vị trí không nhỏ trên thi đàn Việt Nam cũng như trong lòng bạn đọc yêu thơ.

Hoài Lê

Check Also

bodethi img - Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tà trong truyện ngắn Hai đứa trẻ

Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tà trong truyện ngắn Hai đứa trẻ

Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tà trong truyện ngắn Hai đứa …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *