Home / Văn mẫu / Văn mẫu lớp 11 / Cảm nhận của em về bài thơ Thương vợ

Cảm nhận của em về bài thơ Thương vợ

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương.

Bài làm

Cảm nhận của em về bài thơ Thương vợ – Ít có nhà văn nhà thơ nào viết về người vợ của mình sâu sắc và giàu lòng thương cảm như Tú Xương. Bài thơ “Thương vợ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Tú Xương thể hiện thân phận một người phụ nữ – người vợ bèo bọt, vất vả nhưng tần tảo, chịu thương chịu khó đồng thời cũng là nỗi day dứt về sự bất lực của kẻ làm chồng.

Nhà thơ Tú Xương (1870-1907) là một nghệ sĩ, một trí thức phong kiến xưa. Tuy rằng có tài năng nhưng Tú Xương cả đời lận đận trên con đường công danh. Ông tham gia thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài. Mọi việc của gia đình đều dồn lên tay bà Tú. Tú Xương luôn trân trọng công sức của vợ và viết về vợ như một sự tri ân tình nghĩa. Bài thơ “Thương vợ” được tác giả gửi gắm vào đó tất cả tình thương yêu nồng hậu đối với người vợ hiền thảo cũng như một lời tâm sự về thế sự của Tú Xương.

Trước hết, hình ảnh bà Tú được thể hiện là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Bà Tú vốn là “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”. Công việc của bà Tú là buôn bán. Từ “quanh năm” cho thấy công việc của bà Tú tất bận từ năm này sang năm khác, không ngừng nghỉ, như một vòng tuần hoàn không dứt. Không gian làm việc của bà Tú là “mom sông” – mảnh đất nhô ra, chòi ra được bao bọc ba bề là sông nước, là nơi đầu sóng ngọn gió, đầy nguy nan, hiểm ác. Nó gợi ra cái chới với, chênh vênh, không xác định.

cam nhan cua em ve bai tho thuong vo - Cảm nhận của em về bài thơ Thương vợ

Cảm nhận của em về bài thơ Thương vợ

Ấy vậy mà bà Tú bằng nghề buôn bán ấy phải “nuôi đủ” những năm đứa con thơ với một ông chồng. Đứa con xưa nay luôn là gánh nặng của cha mẹ. Nuôi nấng một mụn con đã khó, nay bà Tú phải nuôi cả 5 đứa con. Nuôi con rồi, bà Tú con nuôi thêm cả chồng. Vốn dĩ người chồng phải là trụ cột gia đình, là thành viên chủ chốt nuôi sống gia đình thì nay người chồng như thật “vô dụng”. Hơn nữa, năm đứa con lại đặt trong mối quan hệ ngang hàng với một ông chồng thông qua từ “với”. Điều này chứng tỏ, nuôi một người chồng là gánh nặng lớn bằng cả 5 đứa con. Xưa nay người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, tờ bạc chứ ai lại đi “đếm” con rồi “đếm” chồng. Tú Xương không chỉ ca ngợi bà Tú chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh mà còn có gì đó như mỉa mai chính bản thân mình không thực hiện tốt vai trò của một trụ cột gia đình.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

Hai câu thơ mang âm hưởng của những câu ca dao xưa:

“Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”

Hình ảnh con cò quen thuộc với mỗi chúng ta, thường được dùng trong ám chỉ thân phận nhọc nhằn, vất vả, nhỏ bé của người nông dân. Hình ảnh con cò “lặn lội” kiếm ăn trong đêm vắng giống như bà Tú vất vả với cuộc sống mưu sinh. Ban ngày bà Tú làm việc nơi mỏm đá bấp bênh, đêm về bà Tú lại bì bõm trong đêm nơi “quãng vắng”. Từ “quãng vắng” và “lặn lội” gợi lên không gian làm việc quạnh hiu, hiểm nguy rình rập. Từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi cảnh tranh mua tranh bán, cãi vã, kì kèo trả giá ở các vùng quê buổi sáng sớm. Còn “buổi đò đông” ám chỉ thời cuộc khó khăn, hỗn tạp bấy giờ. Nghệ thuật đảo từ “lặn lội” và “eo sèo” lên đầu câu thơ càng nhấn mạnh thêm hình ảnh nhân vật.

Đến với những câu thơ tiếp theo, Tú Xương như đang mượn lời tâm sự của vợ:

“Một duyên hai nợ, âu đành phận

Năm nắng mười mưa, dám quản công”

Vế từ đăng đối “một” – “hai”, “năm” – “mười” cho thấy nỗi khổ tâm chồng chất dâng lên theo cấp số nhân của bà Tú. Những cụm từ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” đậm màu sắc dân gian.

Tác giả coi “duyên” vợ chồng là “một” còn cái “nợ” là hai. Có lẽ, bà Tú với ông Tú là nợ nhiều hơn là duyên. Nhưng bà Tú không hề than trách mà “âu đành phận”. Cụm từ “năm nắng mười mưa” sáng tạo từ ý “một nắng hai sương”. Bà Tú có lẽ cũng chẳng nề hà gì, chẳng “dám quản công”. Đức hi sinh thầm lặng ấy của bà Tú mới thật đáng trân trọng.

Hai câu kết thể hiện sự tự trách của tác giả:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Tú Xương mượn tiếng chửi của nơi chợ búa xô bồ để mắng “thói đời” sống với nhau quá bạc bẽo. Đời bạc, nhưng bản thân mình cũng bạc. Bản thân nhà thơ thì chẳng giúp ích được gì cho vợ, là người chồng vô tích sự, một người chồng “hờ”, có cho oai. Từ chuyện gia đình, nỗi day dứt được nâng lên tầm thế sự. Nỗi đau thất thế trước xã hội loạn lạc không chỉ riêng Tú Xương mà nhiều trí thức nho gia khác bấy giờ đều phải trải qua.

Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ thơ bình dị, giàu chất dân gian, biến tấu linh hoạt đã khẳng định tên tuổi của Tú Xương trong nền văn học Việt Nam nói chung và thơ ca trung đại nói riêng.

Hoài Lê

Check Also

bodethi img - Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tà trong truyện ngắn Hai đứa trẻ

Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tà trong truyện ngắn Hai đứa trẻ

Cảm nhận về bức tranh phố huyện lúc chiều tà trong truyện ngắn Hai đứa …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *